DU NGOẠN MƯỜNG TRỜI – ĐƯỜNG VỀ XỨ THEN (BÀI 3)

Họ đi đến một nơi thấy có quan Ngài trải chiếu vàng, chiếu bạc rộng khắp nom bát ngát lóng lánh. Đi qua một quả núi khau quai sừng trâu, để tới chỗ con sen vàng của Then. Ai sở được vào mình con sen vàng khi về trần gian sẽ được làm nên đến chức ông Poọng, ông Sen (ông chánh tổng, ông kỳ mục thứ hai). Và tăng thêm phận hay để có thể làm nên quyền cao tới chức Tạo đứng đầu Mường. Khi ấy sẽ được hưởng sung sướng, lúc ăn tiệc được mời ngồi phía trên, đi thuyền ngồi phía đuôi, bơi thuyền thì ngài ngồi giữa, nói năng việc gì với cấp trên được coi trọng, nói gì với dân được dân kính nể noi theo, có chức quyền được hưởng lộc chức đến già, nhà ngài thiếu rau ăn sẽ có người đến làm vườn cho, muốn có nhà đẹp sẽ có người đến xây dựng cho, đồ vật quý và tiền bạc khác có người đến biếu. Trong nhà khác có kẻ hầu người hạ, đồng ruộng cấy cầy không thiếu. Và đoàn vía mo con cầu xin Then Bun cho có đầy đủ vật dụng trong nhà, có bạc trắng, vàng dòng, xin có đông con trai con gái, xin cho có nhiều trâu bò, xin giống lúa trồng tốt cả tại những nơi thiếu nước, xin Then cho thuốc sống khỏe sống lâu, xin cả hòn ngọc cá pa mọm. Xin được đầy đủ mọi thứ rồi cúi đầu lạy tạ ơn 7 Then Bun.

11. CẦU DUYÊN PHẬN NƠI THEN CHĂNG

Nhưng chưa phải đã hết, vùng trời hai vị kể cả nơi Then Chăng vẫn còn có nhiều điều lạ vật quý cần xem và cầu xin. Đoàn thầy Mo lại đi tiếp, leo lên đỉnh núi tìm đường nào gần nhất để tới được nơi ở của con sen vàng, sen bạc và con “ín” thần. Xuống dưới bãi bằng đến được nơi con sen và con “ín” chúng cùng ở một khu gần nhau. Chúng sống từng đôi quấn quýt bên nhau. Con “ín” hình thù như loài trăn đại xụ nhưng trùng trục không thấy đầu đuôi, mình nó vằn kỳ lạ, mỗi con to hơn cuộn cót đang nằm im không cựa quậy. Và con sen vàng sen bạc cũng vậy, mình nó mum múp hình bông sen to tướng. Gặp chúng phải đùa vui sao cho chúng há miệng cười. Con “ín”, không được ăn xôi trộn trứng nó không cười. Con sen vàng sen bạc không được ăn xôi trộn cá nó cũng không ngóc đầu lên tủm tỉm cười. Thầy Mo bảo cả đoàn quân đem luộc trứng gà mái tơ và đem cá nướng chín thơm đưa lại cho “mo”. Ông lấy nắm xôi trộn trứng gà luộc đem nhử vào mũi phía đầu thì thấy đầu con “ín” ngẩng lên cao tới cằm người. Đem nắm xôi nhử vào phía đuôi lại thấy đuôi nó ngóc cao lên, trông rõ thấy đuôi nó vẫn chi chít, đầu nó vằn to thưa, dưới cổ nó vằn ngoằn ngoèo, mình nó vằn thành từng vệt trong, trông đến phát sợ. Thế nhưng ông mo phải thật bình tĩnh, làm như kiểu mèo bắt được chuột còn vờn đùa vui. Con “ín” cái bé hơn con đực, nó ngóc đầu lên mắt đưa đi đưa lại như muốn vờn con đực. Đùa con ín chớ có dùng que, phải dùng tay nhẹ nhàng vuốt lên đầu nó. Đùa với con sen vàng cũng vậy, phải dùng tay khẽ vuốt hai bên má nó, rồi vuốt từ má lên đầu nó. Tự khắc ở đầu con sen vàng sẽ tiết ra nước ướt đó là thuốc trường thọ phải dùng khăn sạch thấm quệt lấy ngay. Đùa con “ín” cũng cốt để lấy được nước thuốc ở đầu nó. Lấy được nước thuốc trường thọ ở con “ín” và con sen vàng rồi đoàn via “mo” lại tiếp tục đi tới chỗ khác. Đi hết núi lên bãi bằng trên cao nguyên có một tràn ruộng khô không thấy trồng lúa mà cũng không trồng dâu. Mường Trời dành khoảng đất này cho rắn thần ở. Rắn khoang đại to hơn bồ thóc mỗi con dài từ 10 sải (bằng 16m) đến hơn thế nữa. Khi nghe tiếng động có người nói nó ngóc cổ lên nghe, mở mắt trừng trừng nhìn. Lên mường Trời thấy nhiều điều khác lạ. Con rắn thì dưới trần gian cũng có nhiều, loại vằn khoang là loài cạp nong, cạp nia nhưng chúng không to lớn kinh khủng như thế này. Đến đây thấy rắn thần mà phát sợ đến như muốn phồng cả da đầu, hai bên thái dương cũng phập phồng và tim đập ran, trống ngực đánh thình thình. Nhưng mọi người bảo nhau bình tĩnh. Thầy Mo sai đoàn âm binh sắp đồ lễ có xôi, cá nướng đèn nến sáp ong và cơi trầu cau đã têm đem tới cầu cúng khấn vái. Thấy rắn thần nhếch miệng cười tủm, há mồm đớp ăn xôi cá, khi đó ông “mơ” cầm một cái que ngắn tới vuốt vào mình đùa với rắn, vuốt từ đầu xuống đến đuôi, rắn chớp chớp mắt nằm im cho mà đùa nghịch. Ai đùa được với rắn thần khi về trần gian sẽ có được nhiều sự may mắn, tốt lành. Đùa với rắn thần xong họ lại tiếp tục đi đến chỗ khác. Đi tới khu chiếc hoa chuối bạc chuối vàng khác nữa của nhà Then. Chiếc hoa chuối này lừng lững to hơn cái bồ đựng thóc của ta ở dưới trần.

Hoa chuối theo chu kỳ mỗi tháng nở ra một lần và cứ đến đúng ngày mồng 10 thì có chín triệu chiếc bìa hoa rụng xuống. Đến kỳ bìa hoa chuối thần rụng thì nhà Then cử nàng Xi La ra trông coi và nhặt lấy hết các bìa rụng đem về. Thầy Mo cùng đoàn vía đến nhặt được một số bìa hoa chuối xấu thấy mỗi bìa chỉ đi mỗi nơi như sau:
– Một bìa chỉ đi phương trời Mường Tung, Mường Hoang, đó là chỉ Mường Ôm, Mường Ai đất dòng họ xa xưa. Nặm Lai, Noong xe cũng liền đấy.
– Một bìa chỉ đi Mường Tiêng và Mường Khem.
– Một bìa chỉ đi Mường Chúp và Mường Mi. Đến đời Ta Ngơn dài tới Mường Muổi.
– Một bìa chỉ đến Mường Lay, Nặm Na.
– Một bìa chỉ đến Mường Xo, Mường Là, châu Tiến.
– Một bìa chỉ đi Mường Hán vua Ngô.
– Một bìa chỉ đi Mường Hỗ ngoài trời.
– Một bìa chỉ đi Púa.
– Một bìa quay về Mường Xang.
– Một bìa chỉ đến mường Tấc.
– Một bìa chỉ về mường Lò đời Tổ. Vào chơi hang Thẳm Lé cùng phái nữ trẻ. Thác nước đổ Nặm Tôốc Tát rì rào. Nơi ấy có người Xá bắc thang đưa hồn người quá cố về trời. Hồn quay cuồng lên mường Trời.
– Một bìa chỉ về Mường Vạt.
– Một bìa chỉ về Mường La.
– Một bìa chỉ về Mường Mụak.
– Một bìa chỉ về Mường Thanh. Đất Thanh rộng bát ngát, trời bằng đất thấp. Tại đấy có dây cây Khau Cát dẫn hồn người lên xuống được từ Trần gian đến mường Trời.

Nước suối nhỏ dồn chảy xuống sông Năm Dôm (Rốm). Tại đất ấy nảy sinh thủ lĩnh Khun Bó Dôm lập bản tại bản Na Nội Ôi Nu xây dựng nên xã hội bản Mường người Thái và cùng sinh sống với các dân tộc ít người khác nữa. Người Thái ở đấy gọi là Thái Bé ( Tay Nọi ), đến nay đã nhiều đời tiếp qua vẫn còn truyền lại.
– Một bìa chỉ về Mường Muổi nơi hội tụ trở thành mường trung tâm của nhiều châu người Thái.
– Một bìa chỉ xuống đất trở thành đất chôn trẻ ma ranh con (phi cướt) lụn bại.

Tiếp đó đoàn vía thầy mo tới một bãi rừng cây quế to có bóng râm ngồi nghỉ cho đỡ mệt. Có vết người qua lại thường đẵn cây quế thay ghế ngồi và ngắt lá ráy dại hứng nước nguồn uống nhưng đây là xứ hồn ma trên trời nên thầy mo dặn cả đoàn chỉ ngồi nghỉ, đừng chặt hái cây quế lót ngồi và đừng hái lá ráy dại hứng nước nguồn uống. Đoàn thầy mo đi tiếp đến Mường Khlôk nghe thấy tiếng khóc than và đến Mường Khai cũng vậy, về đêm họ càng khóc lóc thảm thiết nhiều hơn ban ngày. Họ khóc than vãn cảnh nghèo khổ của dân xứ nghèo. Vùng này toàn là hồn của những người tự tử từ dưới trần gian, hững người bị sống cảnh éo le, cay đắng, không muốn sống nữa, số này nhiều người do ăn lá ngón mà chết, họ không được làm ma chay tử tế, không được cho của nên hồn của họ phải ở nơi xứ nghèo.

12. NƠI THÊU DỆT CỦA 3000 CÔ GÁI XINH ĐẸP ĐƯỢC CAI QUẢN BỞI NÀNG ỦA, NÀNG DAƯ

Đoàn vía mo đi tiếp đến vùng bản doanh của Then Hung (thần ánh sáng) và Then Khao (thần trắng xóa), thấy Then Hung đang cai quản, chăm sóc từng ngôi sao sáng và Then Khao chăm sóc mây, sương mù và tuyết trắng. Then Hung thường ăn thịt gà hồng đào và Then Khao chỉ ăn thịt gà có lông màu trắng. Thầy mo dẫn vía đi tiếp đến khu vực Then Hom (thần hương thơm) ngài cai quản tất cả mùi thơm trên trời và dưới trần gian. Đến khu ngự của Then Hom chỉ toàn thấy mùi thơm, mọi thứ thức ăn, vật dụng đều thơm ngát mùi của các loài hoa. Đoàn “ mo” đi tiếp đến nơi có ba nghìn cô gái dệt cửi đang dệt thêu trên mặt vải thổ cẩm hình những con khỉ và những con rồng. Họ toàn dệt dưới ánh trăng sáng. Đoàn vía “ mo” tới sát gần lại xem các cô gái dệt vải, thấy họ dùng ba trăm nén bạc đúc thành khung cửi, dùng bốn trăm nén bạc thì đúc thêm được cả thoi đưa và dùng bạc nén hàng sọt đúc thành go và chải, tất cả đồ dệt cửi của họ đều toàn bằng bạc. Tiếng đưa thoi lách tách, tiếng sa quay chỉ dồn dập như tiếng đàn gà đua nhau gáy sáng. Mọi người dệt vải thổ cẩm do nàng Ủa trông coi và những người dệt lụa do Nàng Dau trông nom. Họ dệt thêu rất khéo tay, tay trái đưa thoi thành hình đuôi cá, tay phải đưa thoi thành hình quả trám, tay trao đi trao lại thành hình rồng chọi rồng. Cho thầy mo tôi xin một đoạn đủ làm khăn đội đầu đi gọi vía với các cô nàng ơi! Sẽ cho thì không thấy họ trả lời, không cho cũng không thấy họ đáp lời nói năng gì. Mấy cô ngừng dệt giương mắt nhìn, đứng lên đi đi lại lại.

Mo nói: “ Người đẹp mà lòng hẹp thế cô Ủa ơi! Cô Dau ơi! Có khi người xấu mà dạ sáng. Đàng này hình dáng thon cao mà lòng dạ không sáng thế!”. Rồi đoàn vía mo đi tiếp tới chỗ có người đan chài lớn tới chín nghìn mắt. Ai đến xem thấy ông già đan mắt chài vừa về thì người ấy được làm nên quan; đan mắt chài thưa thì người ấy về chỉ làm kẻ hầu người khác; đan mắt mau xít lại với nhau thì người ấy về cái số chỉ làm thường dân suốt đời.

Đoàn vía mo đi tiếp tới chỗ có một cây nhỏ và vườn rau nhỏ, có cô gái ở đấy chạy lại bấu vịn vào cành cây. Ai trông thấy cô ấy vịn vào cành dưới gốc cây thì về sẽ có số cô nàng. Nếu cô ấy vịn vào cành giữa cây thì người trông thấy về chỉ là kẻ hầu cho người khác. Nếu thấy cô ấy vịn vào một cành nhỏ trên ngọn cây thì người trông thấy có số phận chỉ là thường dân suốt đời. Đoàn vía mo đi tiếp đến chỗ gặp một ông già đội nón đang chăn trâu và một bà già mặc áo cổ vằn đang cuốc xới dọn cỏ nương. Bà ta đã cuốc xới được một mặt nương khá rộng dài khoảng 20 sải tay rồi. Qua đấy đoàn mo đi tới chỗ ông Thúng Thắng và bà giàu có. Ông này có cuộc đời nhàn nhã, tươi trẻ mãi không già và là chủ nhiều đàn trâu bò, lại là chủ triệu cây quả trong hàng ức khu vườn. Qua đó đi đến vùng Then Thoóng chiếm hưởng nửa vùng trời. Qua đó đi đến chỗ ngài Ín Thi Li đang bơi thuyền đi dự hội vui ở hồ Chặc, hồ Chi. Đến dự lễ hội ngắt hoa cùng thiếu nữ. Đoàn mo hái hoa sen vào lễ thần coi nôi người nơi hồ Cang Noong rồi lại tiếp tục đi đến mường Í Nắc và mường I – Nạng, nơi đây vùng ngụ của Then Chương (thần chiến tranh). Vùng này không có sự yên ổn, thường xảy ra sự chém giết nhau liên miên, họ không thích sự an vui. Thấy “ mường” của họ có nhiều phân voi, phân ngựa chất đống cao ngập đến ngang lưng người nhưng vàng bạc của họ có nhiều do họ đi cướp bóc được. Đàn ông góa vợ, đàn bà góa chồng nhà cũng có trâu. Con trai chưa vợ, chưa lập gia đình cũng có kẻ hầu. Người dân thường nhưng đi cướp cũng được vợ nàng. Người xấu cũng cướp lấy được vợ đẹp, người đẹp thì càng không kể. Người mặt rạch cũng có được vợ hơn.

13. ĐẾN LIÊN PAN LUÔNG – NIẾT BÀN LỚN

Đoàn mo lại tiếp tục đi đến Niết Bàn lớn (Liên Pan Luông) nơi bao la. Toàn thấy các nàng tóc thơm. Không khí thật dễ chịu, không nóng cũng không lạnh. Người không biết già cứ trẻ mãi. Gói tàu lá cũng non mãi và nảy ra hai ngọn. Nơi Niết Bàn lớn sung sướng mãi mãi. Đồ xôi chín đổ ra không phải quạt xôi khắc đi hơi giữ được xôi nóng ngon. Phụ nữ chải đầu không phải búi, tóc tự nhiên được búi đẹp, hơi thổi búi tóc giùm. Gạo hết tự khắc có gạo, cá hết tự cá khắc đến. Người cũng không bao giờ phải xay lúa giã gạo, thóc trong kho tự sạch thành gạo. Hạt gạo to đủ rìu bổ. Bỏ rau lớn đủ treo rìu. Xứ đấy không hề phạt bắt tội gì ai sai phạm. Mọi nhà đều có rể nằm “quản”. Mỗi tầng sản gác đều có lầu vàng, lầu bạc. Mâm chạn sẵn đầy bát đĩa tha hồ dùng. Trong vườn của từng gia đình đầy chuối và mía. Thầy Mo lên mường trời chẳng đi không, có mang theo “tính tảu” gảy vui đi tìm vía lạc. Mo đem theo âm binh lên mường Trời tới đất Tum Hoàng thấy có “ mường” ngoài trời. Xứ đây đầy hoa thơm, xứ có kẻ hầu người hạ họ biết phép tắc thưa trình, xứ có phụ nữ chăm nom hầu bà chủ. Xứ rộng bát ngát chín ngàn khu vuông, xứ con họ Tạo Xuông, Tạo Lò đến rong chơi. Mường trời thật là xa lạ, trời thoại thoải tựa như lòng chảo gang nhưng cũng mỏng như vỏ bát. Trời không bằng phẳng, cũng cao thấp như quanh một chiếc hoa chuối khổng lồ. Trên ấy đầy ngai vàng và ngai bạc của các Then ngồi ngụ hội đàm thế sự. Nơi có mười dòng nắng chiếu, có tám dòng mưa của trời. Mo lên đây xin báo tới bò thần chín ngàn u, thường ra ăn cỏ non nơi hàng ức đồi trên Mường Trời.

14. TRỞ VỀ TRẦN GIAN

Thầy Mo tôi đi khắp vùng trời, mỏi bước chân rồi mo xin ngừng, sẽ xin trở xuống trần gian. Các âm binh và vía lạc của thân chủ lên mường trời thấy sung sướng cũng không ai được nán ở lại. Dù rằng đến Liên Pan (nơi Niết Bàn) thấy hồn ở đấy sướng vui cũng không ai được ở lại đấy. Hồn phái đẹp không phải vợ mình. Hồn ma có chia ruộng cho hãy thoái thác không nhận cày cấy. Muốn tốt lành ta cũng đã đến Then Vi (thần hòa bình) khen ngợi, ta trở về trần gian sống yên ổn, tốt lành. Trên mường trời mo đã báo cả, mường Khun Chương nơi ấy không tốt lành mo cũng đã dẫn mọi vía về trần gian. Đoàn vía mo đi tới sẽ dẫn mọi vía đi qua ta đã biết. Giờ đây mo tôi sẽ dẫn mọi vía trở về trần gian. Đoàn vía mo đi tới xin ông bà chỉ đường, mách lối cho đoàn đi xuống trần gian được dễ dàng đi xuống bằng đường nào giữ mãi được tuổi trường thọ và may mắn. Một đàng xuống đến đất Hán vua Ngô, xuống Mương Hô ngoài trời, đàng ấy đừng đi! Một đàng xuống đến vùng đất người Lào Lự và đất người Lào quây váy “xà lỏng”, đừng đi! Một đàng xuống măng non chết trước tre, người trẻ chết trước già, vợ chồng cùng chết trẻ, đừng đi! Vậy chúng con sẽ xuống bằng đường nào thưa già ngài?
– Hãy xuống bằng đường qua cầu gỗ “Mạy Chuông, May Hao” Then đặt. Đường ấy chủ trời làm đường đi xuống Trần gian. Đi đàng ấy các người sẽ được mạnh khỏe, sống lâu.

Theo đường đã được chỉ dẫn, đoàn vía mo mừng vui cùng đi xuống. Họ vừa đi vừa ca hát không còn thấy mệt mỏi. Vía họ quay cuồng lăn xuống bỗng đã tới ngọn đồi Khau Tu nơi Ăm Poi đóng đồn xưa tại đất Mường Muổi trần gian. Xuống đến đây gặp nguồn nước Bó Lói tốt lành họ rủ nhau cùng uống mát họng. Rồi họ về đến Chiềng Đi thủ phủ Mường Muổi. Họ tiếp tục đi qua Bản Pẹn, Bản Puak tới Thôm Mòn quê họ. Về đến nơi bãi bến bờ suối họ vẫn quen tắm giặt và múc nước. Đến bản sinh quán của họ có ao hồ thả cá. Họ đã dẫn vía thân chủ được về tới nhà của vía. Nơi ấy đã căng sẵn màn che gom đón vía trở về nhà. Thầy mo và đoàn ẩm binh cùng vía thân chủ tập trung kiểm nhau đầy đủ không thiếu vắng một ai. Rồi họ cùng dẫn nhau về nhà vía thân chủ xong mới chia tay ai trở về nhà người ấy. Vía lạc của thân chủ đã được thầy mo đi tìm thấy, dẫn lên mường trời du ngoạn và cầu xin được phúc lành trở về nhà rồi. Thầy Mo đã dẫn vía vào võng mo đeo, vào địu mo cõng, đã nuôi vía bằng xôi trộn trứng và xôi ăn với cá, xôi bằng gạo nếp gốc thơm ngon. Đã về đến nhà, từ giờ ở nhà vía nhé! Đừng ngại ngùng chi, hãy lên nhà, đừng đứng dưới gầm sàn nhà khai mùi nước giải trâu, đừng đứng nơi sàn ngoài có mùi phân tằm. Vía hãy vào trong nhà, ở nhà mình cùng làm ăn sinh sống với gia đình an vui. Vía hãy vào nơi chăn đệm mình vẫn thường nằm. Nằm đệm bông vải đen, đắp chăn mặt vải thổ cẩm hoa màu đẹp, nằm bên cạnh cha mẹ mình, nằm bên vợ yêu (chồng quý) của mình. Tha hồ vía ngủ sớm dậy muộn. Vía sống sáng trong lành tựa mặt trời, mát mẻ như nước trong nguồn, hãy sống đến già tóc bạc rụng đầy sọt, tóc bạc trắng tựa hoa ban. Vía hãy được làm quan suốt đời sung sướng, làm chủ một vùng đất nước, đời đời nối tiếp dài lâu. Vía sống đến có nhiều cháu mời ông mời cụ về xơi bữa chiều. Cụ mới chống gậy về nhà, mọi điều ước cụ đều thành đạt. Trường thọ và cuộc sống an lành, đầy đủ mọi sự rồi đó vía hỡi!

Theo Nguyễn Văn Hòa – Báo Vía Trần Gian Và Báo Vía Mường Trời – Truyện thơ cổ của ông Mo người Thái Đen vùng Tây Bắc

Nguồn tư liệu
Facebook Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *