Các nội dung chính
- 1 LỜI GIỚI THIỆU
- 2 NỘI DUNG
- 2.1 1. Chặng đầu tiên: Nặm Tốc Tát – Vùng thác thiêng
- 2.2 2. Đán Kẹo Ưởng – Vùng đá nhai
- 2.3 3. Nặm Ta Khái – sông Ngân Hà
- 2.4 4. XỨ BA NGÀN HỒN MA VÀ BÀ GOÁ CHẾT DỊCH
- 2.5 5. KHAU CHẶC KHAU HEN – ĐỒNG LÒ MƯỜNG TRỜI
- 2.6 6. NGÃ BA TOẢ 9 TRIỆU NƠI
- 2.7 7. TÔNG MỨN ME BẢU
- 2.8 8. Mường của những linh hồn xấu số và cảnh vật kỳ thú xứ Then
LỜI GIỚI THIỆU
Mường Trời, xứ mà các Then ngự trị ra sao? Đó luôn là một câu hỏi khơi gợi trí tò mò của biết bao con người nơi trần thế. Là người quan tâm đến vấn đề tín ngưỡng tâm linh, ai cũng muốn được giải đáp những điều mơ hồ, huyền ảo ấy mà chẳng biết tìm về đâu để có được câu trả lời sáng tỏ.
Trong kho tàng sách cổ của người Thái có hàng trăm cuốn ghi chép ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Về tín ngưỡng thờ Then của người Thái Đen ở Tây Bắc Việt Nam có hai cuốn sách Báo Vía Trần Gian và Báo Vía Mường Trời. Đây là hai tập truyện thơ kể của các”Ông Mo”đã từng cúng vía đi du ngoạn nơi trần gian và mường trời đã được ông Nguyễn Văn Hòa dịch và giới thiệu trong cuốn sách “Báo Vía Trần Gian và Báo Vía Mường Trời – Truyện thơ cổ của “Ông Mo” người Thái Đen Vùng Tây Bắc”.
Nhờ cuốn sách này, chúng tôi có được cứ liệu để viết lên loạt bài Du ngoạn mường Trời – Đường về xứ Then nhằm giải đáp cho câu hỏi, đường về Mường Trời sẽ đi qua những đâu, cảnh vật, “con người” ở những nơi ấy thế nào?
NỘI DUNG
1. Chặng đầu tiên: Nặm Tốc Tát – Vùng thác thiêng
Vía của người dưới trần gian hay cúng tiễn đưa hồn người quá cố lên Mường Trời, người Thái Đen thường phải đi qua Nặm Tốc Tát nơi thác nước đổ ở trên núi cao có một hồ trong vắt, vía hoặc hồn phải tắm rửa tại đấy cho sạch sẽ xong nói với người Xá tại đó bắc thang lên Mường Trời, lập tức vía hoặc hồn sẽ quay cuồng đưa lên trời.
Vía hoặc hồn sẽ lên qua một dải ngăn cách giữa Mường Trời và trần gian. Tại đấy cũng là dải ngăn cách giữa nắng và mưa. Có chim Kén Kẻo én vàng từng đàn bay tránh mưa. Đi nữa sẽ tới một khu tràn ruộng khô không thấy trồng dâu, cũng chẳng trồng cây gì. Nơi ấy giành cho trạm dừng chân cho hồn, vía lên người trời. Tiếp đến là xứ sở hồn người ở nhà lầu cao được lợp bằng tấm ván gỗ, lầu thấp là lầu của Nàng Lun, lầu cao của Nàng Lả ngụ. Họ dùng gỗ sung ngáng bẫy trâu rừng về ăn thịt. Họ cũng ăn nõn cây chuối, ăn củ đao, cơm, luôn có cỗ.
2. Đán Kẹo Ưởng – Vùng đá nhai
Đi qua xứ sở của Nàng Lun, Nàng Lả, đoàn hồn, vía sẽ được dẫn đến chỗ Đán Kẹo Ưởng núi đá nhai. Quanh đó đều là núi cao, không có lối nào cho vía hoặc hồn người qua được. Mọi hồn, vía, hay bất kỳ tà ma, kể cả thần thánh gì đến đều phải qua đường đá nhai này. Vùng đi ở giữa, dưới là đá dẹt, trên là một quả núi khổng lồ cứ tự động nhai nghiến nghiền nát mọi thứ đi qua. Thần thánh hoặc ma tà có phép thì đá ngừng nghiến, đi qua được. Hồn, vía không có phép thì phải có lễ cầu xin mới thoát qua được.
3. Nặm Ta Khái – sông Ngân Hà
Đi qua được đá nhai, hồn, vía sẽ đến được chỗ của các nàng Năm, Tháng. Hai bà nàng này quản lý thời gian từng ngày, tháng, năm cho trần gian và trên Mường Trời. Theo đường đi lên hai quả núi Khau Côm và Khau Kiên liền trời. Tới đó sẽ nghe thấy tiếng nước thác đổ ầm ầm dưới dòng Nặm Ta Khái (sông Ngân Hà[?]). Nặm Ta Khái là con sông có nước to, sóng dữ, vía hoặc hồn người dù có tài giỏi đến đây cũng không cách nào đi qua.
Tới vùng này dần dần thấy nhiều điều lạ. Ve sầu bay từng đàn đậu xuống bãi cát ven sông, hình con ve sầu to lớn, mỗi con có hàng ngàn con mắt. Quạ vàng khổng lồ cũng lượn bay từng đàn, gọi là quạ ngàn cánh. Bản bên bờ sông có ông quan trông coi người đẽo cối thuyền và dùng rìu đục khoét thân cây gỗ lớn ra làm thuyền độc mộc. Bên dòng sông Ta Khái thấy có ba người đàn ông nấu sắt đổ khuôn đúc lưỡi câu và bảy người khác biết đúc ra sợi tơ. Họ xuống chèo thuyền qua lại, thuyền của họ chạm trổ hình con cà cộ hoặc hình chim giang. Có bản là hồn của những người Xá chết lên đây kiếm rêu ở sông đem phơi khô để dành ăn dần. Số hồn người Thái chết không được về mường “đẳm” với tổ tiên, họ ngụ tự lập tại nơi này rất đông.
Các vía hoặc hồn lên đến đây muốn vượt sang sông Năm Ta Khái phải đến hỏi hai vợ chồng ông bà già trông coi bến đó. Bất kỳ vía hay hồn nào từ dưới trần gian lên đây hai ông bà đều hỏi là hồn người chết hay vía muốn chết tìm lên đây à? Vía thì nói rõ tôi hay chúng tôi là vía của người đang sống dưới mường trần gian lên mường trời du ngoạn cầu phúc lành. Phải có tiền thuê, lễ vật, “ông mo” thì mời trầu cau nói khó xin ông bà quản lý bến cho mượn thuyền sang sông để tiếp tục lên mường trời. Nếu đồng ý, ông bà sẽ chỉ bảo chỗ cho đi lấy thuyền. Thuyền sắt ông thường cất để trong một cái ao. Thuyền đồng thì ông để nơi bến đò sông Nặm Khái. Sào chống thuyền ông gác trên cành cây mai. Bởi chèo ông gác để trên cành cây roi nước. Tự đến đấy lấy thuyền sang sông. Có nhiều thuyền, chọn lấy chiếc tốt đẹp mà đi. Những chiếc thuyền xấu thường dùng chở hồn xác của những người chết thây đã bị thối rữa. Chiếc thuyền nom thấy cũ là thuyền chở hồn người chết. Vía lên mường trời chơi thì chọn lấy chiếc thuyền đẹp mà đi, chiếc ấy ông chủ bến vẫn dùng bơi đi quăng chài kiếm cá. Chiếc thuyền có nước phải dốc hoặc tát đi cho hết.
Tại đấy hồn bọn thanh niên nam nữ thấy có vía người lạ chúng kéo nhau đến xem. Vía người trần là nam giới thì hồn con gái hay trêu ghẹo, nếu vía là nữ giới thì hồn con trai trêu ghẹo. Đừng chuyện trò chơi bời gì với chúng sẽ bị mất của. Ít nhất vía sẽ bị hồn chúng lấy mất khăn, áo, chúng móc túi lấy cả tiền nếu có. Sông Ta Khái có nhiều bến nhưng ra giữa sông chỗ nào cũng rất nguy hiểm, sóng to, sóng tung cao dễ đánh đắm thuyền. Các vía người sang sông phải có xôi gà rượu lễ cầu thần sóng, cá thần, thuồng luồng, các ma dữ, quỷ ác dưới lòng sông phù hộ mọi sự may mắn, dễ dàng cho các vía người sang sống được an toàn. Kể cả các hồn người chết khi tiễn đưa lên trời về mường đẳm với tổ tiên, khi vượt qua sông Ta Khái cũng đều phải có lễ lót mới sang sống được an toàn.
Khi các vía của người trần lên mường trời du ngoạn cầu phúc, cầu tài lộc thường phải có vía “Ông Mo” dẫn đường kèm theo có đoàn vía nam thanh nữ tú là quân của thầy “mo” đi cùng. Việc chèo thuyền vượt sông do “ông mo” sắp xếp. “Mo” là trưởng đoàn đứng mũi thuyền, đứng lái do “mo” đàn em, khoang giữa thuyền các vía người trần ngồi. Quân thanh niên khỏe mạnh Mường Chiến, Mường Trai, Mường Lung, Mường Sại đều cùng chèo lái. Thuyền lao đi trên mặt sông vun vút không bị vướng mắc bởi các lùm cây roi nước, không bị mắt cồn cát, thuyền sang đến bến bên kia bờ sông nặm Khái an toàn. Đoàn vía lên bờ, buộc cất thuyền cẩn thận tại bến trả lại cho ông bà già trông coi bến.
4. XỨ BA NGÀN HỒN MA VÀ BÀ GOÁ CHẾT DỊCH
Đoàn vía người trần tiếp tục đi tới một khu rừng dâu trên mường trời, người trên ấy chăn tằm và qua khu nương cây chàm do nàng Daư làm chủ.
Nếu là hồn người chết về trời thì người Thái có phong tục cử con rể cả cúng tiễn đưa hồn đến đỉnh núi cao Nặm Tốc Tát ở Mường Lò thì thôi, rể quay về nhà. Từ đó trở đi tiếp do con trai trưởng đọc bài cúng tiễn đưa hồn lên trời. Khi đến Nặm Ta Khái vượt qua sang bên kia sông rồi thì vía con trai hỏi đường dẫn hồn lên xứ Then tìm đến gặp trình diện Then Phắt Phán vào sổ nhập tịch rồi cho hồn về ngụ nơi mường dòng họ tổ tiên của hồn. Vía người con trai trưởng tiễn hồn đến đây thì thôi, cáo từ vĩnh biệt trở về nhà mình dưới trần gian.
Nếu là đoàn vía của người trần lên mường trời du ngoạn cầu phúc lành thì còn rủ nhau đi tiếp đến nhiều nơi khác lạ nữa.
Đoàn vía người trần đi đến chỗ bản có ba nghìn hồn ma đang cuốc xới nương bông và hồn ma của những người đàn bà góa chồng vì bị chết dịch đang xới cuốc nương dâu. Qua đó đi đến chỗ thấy một đám đông trẻ con đang xúm tranh nhau nhặt hoa mía và một số hoa khác nữa bỏ vào miệng nhồm nhoàm ăn ngon lành. Lại thấy nơi này có một hồ nước lớn, những người đàn ông nằm gối đầu lên đất trên bờ nhưng chân duỗi thả thõng xuống nước. Cá dưới hồ cũng gối đầu lên đất trên bờ. Nhìn lên các cây thấy từng đàn chim đậu trên các cành nhưng không phải chúng bám bằng chân mà mọi con đều đặt ngực dính vào cành cây. Những đứa con gái xứ ma đang đeo giỏ hái dâu nhưng chúng đều tháo bộ vú của chúng ra gài lên bờ rào. Thầy “mo” bảo các vía “đừng ai trêu ghẹo, chuyện trò làm quen gì với con gái, chàng trai trên mường trời này, tất cả họ đều là hồn ma đấy! Ta hãy rời khỏi nơi đây đi mau!” . Đi đến chỗ có dòng nước nguồn trong từ lòng đất núi chảy ra, người ta bắc một máng nước, có dấu vết người qua lại thường dừng nghỉ chân nơi đây, họ ngắt lá khoai dại hứng nước nguồn uống xong vứt xuống đất và có vết người chặt cành cây quế lót ngồi. Ông mo bảo: “Ta đi thôi! không ngồi nghỉ lại đây được đâu!”. Đoàn vía đi đến chỗ thấy hồn một đám người ngồi che ô, có người thì chống ngọn gươm xuống đất đang ăn cơm. Lá gói xôi và vỏ trứng luộc bóc ăn xong họ vứt bừa bãi xuống đất. Gần đấy là một khu nghĩa địa xứ ma, những cây cột phướn cắm cờ xanh đỏ tím vàng nhiều màu sặc sỡ. Dưới chân cây phướn dài còn đó bộ sừng đầu trâu người ta cúng cho người chết. Trên ngọn cây phướn có đẽo hình một con chim gỗ “nộc cao” mình ngựa đó là ngựa bay để hồn người chết cưỡi bay lên trời.
5. KHAU CHẶC KHAU HEN – ĐỒNG LÒ MƯỜNG TRỜI
Đoàn vía đi đến chỗ khu rừng cây to Chăn Chuông, leo lên núi cao voi thường đến đây cọ đất nhẵn thín, nơi này khó đi , chân bước lên, chân trượt xuống, phải gắng bước. Trong rừng, từng đàn ve sầu, cà cộ đua nhau kêu vang. Lá cây chuông rụng rơi xuống đầu thầy “mo” lỏa tỏa. Qua núi rồi tới cao nguyên bãi bằng. Đường đi phải lên qua hết núi này đến đồi kia, leo lên Khau Chặc các vía đều mệt muốn dừng chân nghỉ nhưng lại đèo tiếp đèo, tới Khau Hen nắng chang chang không có một bóng mát để ngồi nghỉ cho đỡ mệt . Cái nắng trên mường trời nóng ran, đi dưới nắng nóng đến nỗi hai bên thái dương rung lên vì người mệt mỏi. Khăn vắt vai thấm đẫm mồ hôi. Đi tiếp, tới một khu bãi cỏ mần trầu mọc xanh non mơn mởn rồi tới một xứ hồn xa lạ thấy có hồn cưỡi ngựa hồng từng đoàn cùng nhau đi chầu Then. Vùng ấy có nhiều cây hoa lạ từng đàn ong bướm đến vờn hút nhụy, những con bướm nhiều màu sắc đẹp, các cô nàng qua đó đều dừng chân ngắm cảnh. Đi tới một mường có đồng ruộng mênh mông, bát ngát gọi là Đồng Lò mường trời. Tại đấy có Mường Pi bãi nở đầy hoa bạch bối vàng, hồn đến ngắt hoa chơi, hát nhảy múa xòe. Tại bãi cỏ hoa, con gái nằm tơ hơ cùng con trai không biết ngượng. Rồi trai gái dắt tay nhau vào Rừng Pi, núi Chi chơi mãi không muốn trở về nhà.
6. NGÃ BA TOẢ 9 TRIỆU NƠI
Đoàn vía đi tới một chỗ có rất nhiều ngả đường quang đãng gọi là nơi ba mươi ngả tỏa đi chín triệu nơi trên xứ hồn ma, không còn biết chọn lối nào mà đi tiếp. Họ phải đi tìm đến gặp vợ chồng ông bà trông coi các ngả đường để hỏi thăm. Vía nói họ lên đây cầu thọ vậy đi đàng nào mới được sống lâu ở dưới trần gian? Xin ông bà mách chỉ giúp. Ông bà cai quản ngả đường còn đủng đỉnh chưa kể rõ, “ông mo” đem trầu cau ra mời cầu xin ông bà ta mới chỉ bảo rõ ràng: “Con đường này đi lên nơi Then Xội”. Thầy mo nói: “Đường này chúng tôi không thể đi được vì đến đấy sẽ bị Then bắt tội và bị cùm kẹp”. Đường kia đi lên đến đèo Chửi Rủa, đừng đi! Đường nữa đi đến vùng đất nương cây đổ chắn ngổn ngang, đừng đi! Đường nữa đi đến vùng độc, cây khoai ráy dại to cao tỏa rợp che khắp ba quả núi, đừng đi! Đường kia đi đến rừng ẩm thấp, âm u, tại hồ nước có đỉa to bằng giát nhà, loài vắt rừng ở đấy to bằng cuộn lá dong, đừng đi! Đường kia đi đến khu rừng măng non chết khô trước tre già, ai đến đấy người trẻ sẽ bị chết non trước người già, nếu đôi vợ chồng nào đến qua đấy sẽ bị cùng chết trẻ, đừng đi! … Chỉ có con đường này đi đến vùng cây hẹ mọc non xanh mơn mởn, cây lá sả mọc đầy hoa, người nào tới đó đều sống đến tóc bạc, thọ dài lâu. Thế là cả đoàn vía của thầy mo cảm tạ ông bà mách đường rồi theo đó rầm rập tiếp bước. Họ đi đường có vườn cây bạch bối nở hoa vàng, con đường ấy sẽ dẫn vía người đi tới Mường Me Bảu (nơi bản doanh của nữ thần Bà Mụ ). Nơi ấy có các bà nàng Chủ bạc, Chủ vàng nặn đúc hình trẻ con để đưa xuống trần đầu thai. Đoàn vía của thầy “mo” mừng vui rảo bước cùng đi trên đường từng đôi một, mặt họ hớn hở như hoa ban mới nở, như hoa sổ xứ người nở đẹp không kém gì hoa sen. Họ vừa đi vừa vung tay qua cầu Dắt và cầu Dỏi. Đi trên cầu mà thơm lừng mùi hoa trứng gà và hoa mã vĩ bên núi ven bờ suối đưa tới. Đi tiếp tới chỗ rừng roi nước có sương mù xòa xuống phủ mờ cả lưng sườn núi, mờ cả các lối đi. “Ông mo phải trèo lên đỉnh núi, nhìn xa xem phong cảnh thế nào để liệu đi theo ngả nào cho tới đâu? Đứng trên đỉnh núi cao, “ông mo” nhìn thấy khu làng Bản có cánh đồng bát ngát. Ông xuống núi dẫn các vía và đoàn quân của ông đi phía ấy.
7. TÔNG MỨN ME BẢU
Cánh đồng ấy gọi là Tông Mứn của nữ thần Me Bảu lúa đã chín vàng nhưng vẫn chưa thấy gặt. Đoàn vía đi tiếp qua cánh đồng đến dưới một Bản có mọc những đám cây “xổm cúm” rau chua, cây “phắc xa” rau dướng người ta vẫn hái dùng nấu cám lợn và thấy những cây xổ nhỏ đang mọc lá xanh non vòng quanh khu thành quách bao la. Gần đấy có một con suối nhỏ nước chảy trong vắt, các bà nàng trong thành tới đây tắm gội vừa xong mới trở về thành. Thì ra, bến nước suối này là nơi các nàng trong thành quách kia vẫn ra đây tắm gội, múc nước mang về. Một phiến đá to bằng phẳng bên suối có tên Hin Tốp Pột là nơi các cô nàng trong thành thường ra đây giặt rũ, giặt sợi vải đem về hồ. Có vết người vừa giặt xong vẫn còn ướt nhưng không thấy có ai, như thế là họ vừa giặt xong mới trở về thành. Đoàn vía đi tiếp tới một khu vườn đủ các loại rau đang mọc xanh non, đó là rau của các nàng chủ trong thành ra đây trồng. Qua khu vườn rau lớn, các vía tới chỗ có một bản rất đông nóc nhà, nơi này chắc là bản dân ở, đều là những người hầu hạ, làm những công việc tạp dịch phục vụ các bà nàng trong thành quách sang trọng. Nhìn vào khu thành quách, bên ngoài có hàng rào bao quanh dày đặc, trong thành rất đông nhà lầu lớn, nhà nào cũng đều lợp bằng các phiến gỗ chắc được bào nhẵn, vuông cạnh như có khuôn đúc hàng loạt. Nhà sàn lầu cao, to rộng, trên mái hai đầu hồi lầu nào cũng đều có bộ “khau cút” chạm trổ hình hoa sen và hình trăng sao trong khung gỗ chéo hình các tàu lá rau bợ lớn và được sơn màu trắng tinh, nom lạ và rất đẹp mắt. Có tòa nhà lầu to, rộng, trong nhà đám chim bồ câu vàng, bồ câu bạc bay quanh rồi đậu gù ghì từng đôi bên nhau.
Đoàn vía của “ông mo” rủ nhau bắc cây làm thang vượt qua rào vào trong thành, không qua xin lính gác mở cửa thành sẽ gặp khó khăn, không chắc họ có mở cho vào hay không? Qua một khu vườn trồng đầy cây củ gừng lá nhỏ, qua khu vườn mía lá dài rồi tới khu vườn trồng hoa và cây cảnh trước cửa sổ tòa nhà sàn to nhìn ra. Đi tới thềm gậm sàn, đây là dinh thự của nàng Mẹ, đoàn vía lên nhà qua đường cửa sổ phía đàng “quản” đầu hồi sau rồi khi xuống đi đàng sàn “chan” phía trước, khi xuống đi bằng cầu thang vàng, thang bạc nhà nữ Thần. Trong tòa lầu rất rộng, các vía vào tới một gian phòng bày đầy hoa tươi mới nhú rồi tới một gian khác cửa lớn mạ vàng bóng loáng, cửa đóng chặt, có một con trăn cổ ngắn vàng nằm cuộn tròn ngóc cổ lên, mắt trừng trừng, nằm gác cửa. Đoàn vía ông “mo” khấn vái, xin trăn thần giúp mở cửa cho được vào gian nhà. Trăn chớp chớp mắt tỏ vẻ đồng ý, bỗng có tiếng loảng xoảng như có người mở then cửa cài bên trong, hai cánh cửa bằng gỗ lõi chắc có chạm trổ hình rồng, phượng mạ vàng tự động mở toang ra cho đoàn quân vía của thầy mo đi vào.
Mo nói: Mo tôi cùng đoàn âm binh đi tìm được vía lạc của thân chủ đã đầy đủ, nay dẫn vía lên mường trời du ngoạn, lên đây vía thấy trên xứ Then có nhiều cảnh lạ, đẹp mắt, sung sướng, vía cứ muốn lẩn nán ở lại chơi lâu ngày nhưng dưới trần, gia đình thân chủ đã mổ trâu nấu cỗ cúng cầu giao cho “mo” tôi phải chóng dẫn được vía trở về nhà, đưa vía đi du ngoạn cầu phúc xong nhất thiết phải dẫn vía về. Vía về nhà dưới trần gian ăn cỗ thịt trâu con lớn, uống rượu cần trong vại lớn, trong giỏ mây đan. Tại mâm cỗ cúng vía hiện có các quan chức cùng bộ lão ngồi uống rượu đang chờ “mo” tôi dẫn đưa vía về. Nơi đệm ngủ trong nhà của vía có sào cây đang treo vắt áo vía, chăn đệm trải sẵn đặt gối thêu đẹp chờ vía về nằm.
Thầy “mo” tôi lên mường trời đây mời nữ thần Bà Mụ và các ngài đúc khuôn hình người cùng xuống trần xơi cỗ thịt trâu cúng vía của thân chủ … ( đọc họ tên ). Mời Then Phắt Phản cùng các ngài định mệnh cho vía thân chủ cùng các quan trong dinh thự Then cùng xuống trần xơi cỗ cúng vía của gia đình thân chủ.
Thầy “mo” tôi xin mời thầy nàng “Me nôm” cho sữa mẹ,
Thầy nàng “Me đa” cho địu cõng nuôi con,
Thầy “Me ủ” mẹ nôi cho đặt con nằm nuôi lớn,
Các quan thần “Tạo liếng chư” cho đặt tên con nên người,
Mời các Nàng “Chảu me húk” – Chủ dệt vải,
Mời “Cháu xuôn cuổi khuôn” Chủ vườn chuối định mệnh,
Mời “Chảu nong pa ming” – Chủ ao cá vía,
Mời “Chảu nen nặm nen phay” – Chủ nguồn nước nguồn lửa,
Mời “Chiu hươn ming hươn khuôn” – Chủ nhà vía Mường trời,
Mời “Chảu luông king, én nọi” – Chủ vía bướm vía chim của người,
Mời “Chảu kho xay, xạ” – Chủ đó đươm cá, giỏ đựng thức ăn nuôi người,
Mời “Chảu kho ống” – Chủ kho súng đạn nhà Then,
Mời “Chảu lộc cáy khuôn” – Chủ trại gà vía
…. mời các Then thần, các Ngài đều xuống trần gian thụ cỗ thịt trâu rồi phù hộ cho vía thân chủ mọi sự tốt lành.
Thầy “mo” dẫn đoàn vía vào dinh thự nữ thần Me Bảu đi đàng “quản” phía sau, lên mời các Then thần xong, họ xuống đàng “xia” phía trước. Vào dinh nữ Thần thấy đẹp và có nhiều điều lạ nên vía thân chủ muốn trốn tránh nán lại chơi lâu ngày nhưng thầy “mo” bám lấy vía, chỉ dẫn đi du ngoạn một số nơi xong sẽ phải đưa vía xuống trần gian trở về nhà.
Trước khi rời dinh thự nữ thần Me Bảu , ông “mo” kiểm tra kèm vía thân chủ cùng tất cả các vía âm binh đủ tất cả rồi ông lại dẫn đi du ngoạn tiếp trên Mường Trời.
8. Mường của những linh hồn xấu số và cảnh vật kỳ thú xứ Then
Đoàn vía của ông “mơ” tới một nơi có cây ráy dại khổng lồ lá to xòe rợp đủ che ba con suối và khóm chuối rừng to lá xòe ra rợp đủ che ba quả núi. Khóm chuối này không bão giờ ra hoa có quả. Đi tiếp tới khu rừng cây củ riềng nở hoa đẹp rất lạ toàn lá màu vàng rồi đến Mường Khun Chương nơi đô thành dữ tợn của thần chiến tranh, sợ lắm, đoàn vía “mo” không dám vào, rủ nhau mau bước đi qua cho nhanh. Đến một bản toàn thợ làm nghề chuyên se chỉ, rồi bản nữa chuyên nghề se bện sợi gai rồi đan thành chài và lưới. Qua đó tới một bản chuyên nghề làm đồ gỗ đóng hòm xiểng và làm các bộ cánh cửa sổ, cửa ra vào. Rồi tới một bản thơm lừng mùi các loài hoa, rừng cây roi nước lá xanh mơn mởn cũng nở đầy hoa. Đi tiếp, đoàn vía của ông “mo” leo lên dốc Khau Ngộc và Khau Ngô, lên qua núi Khau Củ, Khau Có đến núi Khau Cai sương mù tỏa trắng xóa, nơi đây toàn là xứ ma. Qua các núi đi xuống vùng đồng bằng tới chỗ có ngôi đình lớn nguy nga, nơi đây các quan trên Mường Trời vẫn thường tới hội tụ. Tới một Bản thấy toàn con gái ra sàn, nhà nào cũng phơi đầy khăn lụa các màu. Con gái đông, con trai rất hiếm, con gái thường mong con trai đến chơi họ sẽ tặng khăn lụa hồng. Trên các sàn nhà có nhiều cô gái đang ngồi kéo sợi bông hoặc se sợi tơ, guồng sợi của họ luôn quay tít. có Đoàn vía của thầy “mo” đi đến một bản lạ, nhà nào cũng thấy người căng màn, màn của họ nằm chỉ có ba góc . Người ta gọi đây là “Bản Tạo lặc lưn non vên” – bản của người lợm giọng ngủ trưa. Họ là nam giới, dòng dõi họ quyền quý, lười làm việc, ăn no rồi lại nằm ngủ, không ốm yếu gì cũng chỉ nằm ngủ. Họ ngủ lắm ít cử động đi lại đến nỗi đầu gối của họ cứng lại thành chai, gõ như gõ mõ cũng không đau.
Đoàn “mo” đi đến chỗ một con suối có đập ngăn nước chỉ có một chỗ hở nước chảy xiết, cuốn các loại cá trôi xuông đấy, người ta làm lõng đón hứng bắt được nhiều cá. Đây là nơi Then tẳng li kin pa – Then làm li bắt cá về ăn. Cũng tại vùng này, Then Chúc đang tung hỏa mù làm thành những đảm mây che khuất ảnh mặt trời nên trời bị tăm tối. Then chua thì đang cho quân đi tung bột thuốc bón ruộng khắp các cánh đồng. “Chảu Phạ’’ – Chủ trời cũng cho quân đi tung bột ho. Do vậy, làm cho người dưới trần gian bị mắc bệnh đủ các chứng ho. Người trần bị ho khù khụ ốm nằm miệng luôn khạc nhổ đờm dãi vào ống đựng đờm, người Thái gọi là ho khóp khép. Người thì cứ từ nửa đêm đến sáng ho liên tục đến rát cổ họng, ho không thể nào ngủ yên được, gọi là ay nả cáy, ho lúc gà gáy.
Qua đó, đoàn vía “mo” đi đến vùng ma trẻ ranh, chúng ngụ lởn vởn nơi bãi cây báng súng. Ở đây măng chết khô héo trước tre, trẻ con chết trước người lớn, người già. Có một con suối chảy dọc, người ta bắc cầu sang ngang. Mưa to nước suối dâng cao ngập bãi cây roi nước, nước lên mấp mé chân cầu. Đoàn đi tiếp tới một nơi thấy có ba người đàn ông đang ngồi bên bờ suối câu cá. Có bảy người đàn ông trực bến thuyền chở khách sang sông nhưng “mo” không có tiền đi đò, “mo” dẫn đoàn vía đi vòng tìm nơi có cầu qua sông, suối. Trên ấy có hai chiếc cầu, Khua Phột cầu này dựng qua suối gần với một ngôi sao và Khau Phao là chiếc cầu Trời dựng toàn bằng gỗ chuông. Cây chuông là loài cây to cao moc thẳng đứng vẫn thường dẫn hồn người chết dưới trần gian đi lên mường Trời. Ai sợ thì không thể đi qua hai chiếc cầu này được bởi khi bình thường cầu yên lặng nhưng khi có ai qua bất kỳ, cầu đều rung lên như muốn hất tung người ngã xuống. Gần hai bên chiếc cầu đều có nhiều các vì sao lấp lánh. Then cho dựng cầu rung để dọa và thừ những người yếu bóng vía, thực ra chưa có ai bị rơi ngã cầu. Nếu ai bị ngã cũng không chết, không đau, bởi dưới cầu đã có võng lưới đón. Đoàn “vía mo” đi tới đây đã mệt, họ ngồi nghỉ, mở trầu cau ra ăn bên bờ sông Nặm Cưới. Xong họ lại tiếp tục đi qua một con đường lộc cộc tới đầu một bản đông đúc đã thơm lừng hoa “kiêng”. Vào đấy có một ngôi đình lớn hình vuông, nơi các vua các quan vẫn tới đó chầu Then, cũng là nơi Then Luông cùng vua Thủy tề hội đàm. Trong ngôi đình nổi tiếng chiêng trống ầm vang. Đi nữa tới một nơi trời sầm tăm tối rồi phải qua một cái cổng lớn tối om do bà Ý Tăm trông coi. Trên đường tối mịt không nhìn rõ lối đi, thầy “mo” sai quân tìm lấy những cây nứa tép đập dập ra bó lại làm thành những bó đuốc thắp sáng mà đi. Qua cổng tối có ánh trăng và ánh sao. Bên trong cổng tăm tối có một kho chất đầy súng đạn và binh khí, qua đây rất nguy hiểm, chỉ có một lối nhỏ khẽ lách lọt đi từng người phải rất thận trọng. Bên trên có những ngọn giáo sắc nhọn sáng loáng, đi phải cúi nếu không khéo léo sẽ bị ngọn giáo cứa đứt gáy, tránh qua chỗ này đến chỗ kia lại cổ những lưỡi gươm rất sắc đặt dưới đất phải cẩn thận khẽ bước qua rất khéo, lỡ bước là giẫm chân phải lưỡi gươm. Ồng “mo” cầu khấn xin Trời cho đi qua khỏi nơi này được an toàn. Qua khỏi nơi hiểm nguy, đoàn vía “mo” tới một khu đồng ruộng bát ngát gọi là Tôn khảu mứn, cánh đồng thu hoạch được mỗi vụ hàng vạn gánh thóc. Tại đây có một sô dinh thự nguy nga của một số vị Thần. Dinh thự của Then Bắc nơi thần khắc số mệnh vào vân bàn tay thả xuống trần gian cho từng người, hàng triệu con người mỗi người môi cảnh ngộ và vân tay khác nhau không ai giống ai. Dinh thự Then khiên xư của thần đánh dấu cho chữ vào ngón tay cho từng người dưới trần gian biết chữ và dùng tay viết chữ, người biết nhiều, người biết vừa, người biết ít, có người không biết, tay viết chữ của từng người cũng có nét chữ khác nhau. Dinh thự Then án chỉa Mường Bôn của thần giữ sổ sách cai quản số mệnh của từng người dưới trần gian, ghi định sẵn ngày, giờ, năm, tháng sinh tử. Khu vực này còn có dinh thự của Then áy chăm khoong thần ban của giàu cho một số người dưới trần gian.
Đi nữa, đoàn vía “mo” qua hai chiếc cầu. Qua Khua Lải chiếc cầu rất đẹp, khi đi trên cầu thấy người mình khoan khoái thảnh thơi. Rồi đến chiếc cầu thứ hai gọi là Khua Toong, cầu làm bằng đồng đúc vàng rực, hình tám cạnh. Đoàn đi một đoạn đường xa lại gặp hai cây cầu khác nữa bắc qua con suối lớn. Qua một cầu gọi là Khua ủa và gần đấy còn có cầu Khua Păng. Đứng trên cầu nom thấy rõ các vì sao to nhỏ đua nhau nhấp nháy tỏa những tia sáng xuống rất đẹp mắt.
Đoàn vía “mo” đi tới một khu rừng già rất rộng. Đến đấy thơm lừng các mùi hoa, mỗi thứ hoa có hương vị khác nhau. Mùi hoa mã vĩ thơm thoảng theo gió đưa, hoa trứng gà thơm ngát mà dịu, hoa chăm-pa thơm lừng không thể lẫn với loài hoa khác, thơm hoa “bok kiêng” và ở đây có cả hoa củ bấn cũng thơm. Mỗi thứ hoa đều thơm và đều đẹp khác nhau. Đi qua đây là qua một trong nhiều thứ hoa trên thiên đường, lại đi qua một khu rừng già nữa, ở đây cây bấc cũng nở hoa. Ve sầu, cà cộ đua nhau kêu vang. Phía trên đầu, đàn chim giang bay rợp trời vừa vỗ cánh vừa kêu như rủ nhau cùng bay khỏi lạc đàn. Đi hết núi này sang đèo kia, núi tiếp núi trập trùng. Sương mù tỏa nhẹ xuống phủ rừng cây roi nước, từng luồng gió thổi lay nhẹ những cành tre trúc. Thỉnh thoảng lại có những chiếc lá vàng lỏa tỏa rơi rụng xuống. Trên trời những đám mây bay tụ lại thành giọt sương lác đác. Thầy “mo” và đoàn âm binh vẫn luôn phải bám sát vía thân chủ đi cùng, lúc nào cũng chỉ lo vía thân chủ lẩn mất vì thích đi chơi riêng một mình nơi mường Trời xa lạ.
Đoàn vía “mo” đi tới một hồ nước lớn gọi là Nong Thăng. Thấy có hơi vía người lạ, hàng đàn con đỉa bơi quẫy trườn lên mặt nước, đỉa kỳ lạ ghê rợn, mỗi con to bằng miếng phên giát trải nhà dưới trần gian. Đỉa ma ngóc lên muốn bám hút máu vía người. Thầy “mo” nhắc cả đoàn hãy bước mau đi khỏi nơi này. Chẳng những dưới hồ có đàn đỉa ghê gớm mà trên rừng còn có đàn con vắt khổng lồ, mỗi con to bằng cuộn lá dong xanh dài thượt lao tới muốn bám hút máu vía người. “Mo” rủ mọi vía phải chạy đi nhanh cho mau thoát khỏi nơi này. Đoàn vía “mo” đi tới chỗ có một chiếc vạc đồng bốn quai không lô kỳ lạ. Chiêc vạc đặt trên ba quả núi, mỗi núi là một ông đầu rau. Phải kiếm củi từ chúi khu rừng khuân tới đây mới đủ củi đun. Trong vạc càng kỳ lạ hơn. Vạc đun chỉ sôi một góc, góc kia nước trong lạnh đàn cá đang bơi lượn, góc kia nừa có một anh lái buôn đang bơi bè, góc kia nữa đàn vịt đang đẻ trứng, góc nữa có người Xá nhỏ đeo giỏ đang đi ven hồ. Đây là Mỏ na hốc – chiếc vạc thần trên mường Trời. Góc nước đun sôi sùng sục là nơi dành để xử những người có tội ác dưới trần gian đưa vào đấy. Đoàn vía đi tiếp tới khu đồng ruộng khô bằng phẳng một thửa gọi là Na Tháo và một thửa gọi tên Na Đon. Hai thửa ruộng này không cấy lúa cũng không trồng dâu, dành để làm sân công cộng. Các cô gái, chàng trai trẻ thường đến đây chơi ném quả còn. Sân cũng là nơi dừng chân nghỉ ngơi cho mọi người gánh nặng đi đường xa mỏi mệt. Mỗi khi có cuộc chơi ném còn thật là vui. Những đường “còn” thắm đượm đàng tình duyên. Đường còn quấn quýt bên nghĩa nặng tình. Dây còn tung bay tỏa những tua ngũ sắc đẹp mắt. Cậu trai tung từ bên phải lại, cô gái tung đáp từ phía trái đến. Từng đôi, từng đôi nhộn nhịp, nhiều quả còn tấp nập lui tới, lên xuống trên bầu ừời tỏa lã chã như bông lau bay trước gió thoảng. Một tốp thanh niên đang chơi chọi gà, con nọ nhảy đá con kia rất hăng, chúng mổ nhau vặt trụi lông, mãi rồi cũng có con thua phải bỏ chạy, con được đuổi theo. Chủ con gà thắng cuộc chỉ vặt lấy lông đuôi hoặc lông cánh con gà thua cuộc, không như dưới trần gian chơi chọi gà người ta cược tiền hoặc cược đồ vật với nhau. Bên phía trai gái tung quả “còn” thì bên nào thua phải nộp áo, khi tan cuộc chơi bên thua phải hát cho xin lại áo, mời rượu xong bên được mới trả.
Đoàn âm binh vía “mo” lên mường Trời thấy nhiều cảnh chơi vui cũng lấy làm vui cùng hồn nguời ta. Đi tiếp đến một nơi có ba nghìn cô gái nàng đang tụ tập trên lầu rủ nhau đi gặt lúa chín ở ruộng Na Đon, Na Hon phải hàng trăm lượt đi đi ve ve mới xong. Và còn gặp các cô nàng người nhà Then đên khu đồng Tông Củ, Tông Cút điểm coi số lúa gặt ngắt bông đã buộc thành bó xếp hàng trăm đống ngoài đông chưa đem về kho thóc. Ruộng nhà Then rất rộng, có đến bốn vạn nghìn hốc lấy nước vào và tháo cho nước chảy ra. Những hốc lớn lấy nước chảy vào ruộng đều lấy từ những chiếc ống máng to đúc bằng đồng. Nước máng cũng được phân chia một số cho chảy vào ruộng của dân, còn hầu hết đưa chảy vào cánh đồng Tông Củ, Tông Cút của nhà Then.
Lên mường Trời mới thấy đồng ruộng bát ngát, kỳ lạ khác dưới trần gian. Một đàn quạ đen rợp trời bay trên đầu đoàn vía “mo” vừa qua đi lại thấy đàn quạ trắng bay tới. Gần đấy có một con suối lớn, ngang suối ngăn dòng bằng chiếc phai to ghép lại từ chín nghìn đoạn gỗ. Đi nữa, tới một cái hồ rộng lớn gọi là Nong Ú Va Mường Trời. Con tôm càng ở đây to bằng con lợn tạ dưới trần gian. Con cua to bằng chiếc vung đậy nồi nấu rượu. Qua đó tới một cái hồ khác, hồ kỳ lạ, nước hồ toàn là nước máu tươi đỏ lòm, xông hơi lên tanh mùi máu người. Hồn những người chết trận mạc, hoặc bắn, chém giết nhau chết tươi lên tắm nước hồ này. Có những người đàn ông đội mũ da người và những người đàn bà đeo bên mình ống máu tươi. Kể cả đàn ông lẫn đàn bà đều mặc áo nhuộm nước cánh kiến màu đỏ. Hồn đàn bà lên đây đều là ma của những người chết khi đang đẻ.
Đi nữa, đến một “mường” dân ở đấy toàn ăn thịt lợn chết ngộ độc và ăn thịt những con lợn có nhiều đuôi. Họ ăn thịt nai đã chết vì ngộ độc. Suối ở đây nước vàng cạch màu gạch cua. Hồn dân ở đây toàn những người bị bệnh ghẻ lở, hủi và cả nam lẫn nữ đều mắc bệnh chiêm la hoa liễu. Những khóm cây cỏ gianh đều cuộn lá vàng. Hôn ma trông khoai nước trên ruộng cạn. Người đây nói tiếng khàn cổ bởi bị bệnh ho. Họ ho nhiều đến nỗi người yếu xanh xao vàng vọt, không đi đâu được, đứng dậy đi lại đều chống gậy. Một số người què khập khiễng lại bị mờ mắt. Những người nghèo thiếu cái ăn phải vào hái rau rừng, leo lên cây hái quả rừng mà ăn. Cũng có người đi hái lá rong rừng bó lại từng bó đem đi bán hoặc đem đến từng nhà xin cơm. Ban đêm vang lên tiếng kêu khóc than vãn cuộc đời của những người nghèo khổ, rộ lên vào lúc gà gáy sáng. Qua đây, đến một khu bãi bằng rộng, có một quả đồi hình đầu rồng. Bãi cỏ xanh non mơn mởn nơi vẫn thả voi và ngựa của nhà Then ra đây ăn cỏ. Có bãi cỏ riêng chỉ thả nuôi toàn trâu và bò nhà Then, chúng gặm cỏ đến sạch. Tới chỗ có một quả núi đất lẫn đá cao, thầy “mo” đích thân trèo lên đỉnh núi quan sát khắp bốn phương trời tìm xem các bản mường ra sao? “Mo” thấy đám mây mù cuộn trôi lơ lửng nơi núi Pha Bôn lấp lánh. Sương sa nhẹ nơi núi Pha Chăng lăn tăn. Một khu dinh thự nguy nga đồ sộ, khói nấu bếp từ từng nhà bốc tỏa lên không trung thành những cột khói. Từ khu dinh thự đó, đông người tấp nập vào ra. Có một con suối lớn, nguồn nước bốc tung cao trắng xóa, những người đàn ông đang quăng chài chân sắt, chân đồng. Có người đang thả lưới chỗ Pha Băng, họ đánh bắt cá về ăn gỏi, ăn các món cá.
BÀI 2: http://lichsuvanhoathai.com/du-ngoan-muong-troi-duong-ve-xu-then-bai-2/